
Quá trình giải quyết những vụ án kinh doanh thương mại bằng Tòa án diễn ra theo nhiều bước và mất khá nhiều thời gian giải quyết vì đây là phương thức giải quyết cuối cùng sau những phương thức thương lượng, hòa giải hay trọng tài thương mại.
Dưới đây chúng tôi xin chia sẻ các bước cơ bản trong quy trình giải quyết bằng Tòa án như sau:
Nội dung
- Khởi kiện và thụ lý vụ án:
- Chuẩn bị xét xử:
- Phiên toà sơ thẩm:
- Thủ tục phúc thẩm:
- Thủ tục xem xét lại đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
- Bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm:
- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là: (Điều 326. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015):
- Thẩm quyền giám đốc thẩm được xác định như sau: (Điều 337 Bộ luật Tố tụng dânsự 2015):
- Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền hạn sau: (Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự2015):
- Tái thẩm:
- Xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Khởi kiện và thụ lý vụ án:
Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại được hiểu là việc cá nhân, pháp nhân làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại để bảo vệ quyền và lợi ích của mình đang bị tranh chấp hay vi phạm.
Nguyên đơn muốn khởi kiện phải làm đơn khởi kiện gửi đến Toà án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết trong thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện được hiểu
là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Thời hiệu khởi kiện được quy định đối với tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng vụ án dân sự nói chung là hai năm kể từ ngày quyền lợi ích bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, như: đối với tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm thì thời hiệu khởi kiện là ba năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp (Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010); thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm, đối với bất động sản là 10 năm, xác nhận quyền thừa kế, bác bỏ
quyền kế thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế, thời hiệu để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại là ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế (Điều 623 BLDS 2015)
Nguyên đơn phải gửi kèm theo đơn kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đơn kiện có thể nộp trực tiếp tại Toà án có thẩm quyền hoặc gửi qua đường bưu điện.
Thụ lý vụ án được hiểu là việc Toà án có thẩm quyền chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết.
Toà án nhân dân khi nhận được đơn khởi kiện phải xem xét nếu vụ án thuộc thẩm quyền và nếu thấy đơn kiện không rơi vào các trường hợp bị trả lại đơn kiện thì sẽ thông báo để nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông báo người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Toà án chính thức thụ lý vụ án khi nguyên đơn xuất trình hoá đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi Toà án chính thức thụ lý vụ án, trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án.
Nếu rơi vào trường hợp phải trả lại đơn kiện theo quy định của pháp luật thì Toà án
trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện và phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại
đơn kiện. Người khởi kiện nếu không đồng ý với quyết định trả lại đơn của Toà án có thể
tiến hành khiếu nại. Các trường hợp bị trả lại đơn bao gồm:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết;
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự;
- Sự việc đã được giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án hay các cơ quan có thẩm quyền khác;
- Hết thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp. Trừ trường hợp có lý do chính đáng: chưa đủ điều kiện khởi kiện; hoặc vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Mức án phí kinh tế sơ thẩm đối với các vụ án kinh tế được quy định tại Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH ngày 27/2/2009 về án phí, lệ phí Tòa án.
Chuẩn bị xét xử:
Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án phải tiến hành các hoạt động nhằm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, đây là giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án kinh tế được pháp luật quy định hai tháng kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án, nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể gia hạn thêm nhưng không quá hai tháng.
Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp về
việc Toà án thụ lý vụ án. Đương sự có nghĩa vụ cung cấp những tài liệu, chứng cứ cho Toà án, Toà án chỉ thu thập chứng cứ trong những trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu.
Toà án phải tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được. Về
nguyên tắc, các bên có quyền tự tiến hành hoà giải trong suốt quá trình tố tụng. Tuy vậy,
việc Toà án mở phiên hoà giải là cơ hội thuận lợi nhất cho các đương sự có thể đạt được
sự thỏa thuận.
Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội dung các vấn đề hoà giải. Phiên hoà giải do Thẩm phán chủ trì và có Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải. Khi tiến hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy dịnh của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Nếu hoà giải thành nghĩa là các bên đương sự đã thoả thuận giải quyết toàn bộ tranh chấp thì Toà án sẽ lập biên bản hoà giải thành và sau bẩy ngày mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không được kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nếu hoà giải không thành thì Toà án sẽ lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử nếu xảy ra một số sự kiện đặc biệt khiến việc giải quyết không còn tiếp tục được, Thẩm phán có thể ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án được hiểu là Toà án tạm dừng viêc giải quyết vụ án.
Theo Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì các trường hợp sau đây Toà án sẽ tạm đình chỉ việc giả quyết vụ án:
- Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó;
- Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự hoặc người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
- Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế;
- Cần phải đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới được giải quyết vụ án;
- Cần đợi đết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án mà thời hạn giải quyết đã hết.
- Cần đợi kết quả xử l văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, của các cơ quan Nhà nước cấp trên khác.
- Theo quy định của Điều 41của Luật phá sản
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Đình chỉ giải quyết vụ án được hiểu là Toà án chấm dứt việc giải quyết vụ án. Các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án bao gồm: (Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015):
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được
thừa kế;
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ
quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
- Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị giải quyết vắng
mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
- Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
- Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Toà án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Toà án cấp sơ thẩm ra bản án, quyêt định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết.
- Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc
nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án; - Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án;
- Nguyên đơn đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng;
- Các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Nếu vụ án hoà giải không thành hoặc không thể tiến hành hoà giải được, không bị tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì sau khi chuẩn bị xong Toà án phải ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
Phiên toà sơ thẩm:
Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Toà án phải mở phiên toà xét xử sơ thẩm theo đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà trong trường hợp phải hoãn phiên toà. Thời hạn luật định là một
tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà, nếu có lý do
chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
Phiên toà sơ thẩm được tiến hành dưới sự điểu khiển của một Hội đồng xét xử gồm
một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ
thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.
Phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hoặc đại diện của những người này; Kiểm sát viên; người làm chứng, người phiên dịch, người giám định (nếu cần).
Phiên toà có thể bị hoãn trong những trường hợp sau:
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà, Kiểm sát viên phải thay đổi mà
không có người thay thế;
- Tại phiên toà Hội đồng xét xử quyết định thay thế người giám định, người phiên dịch mà không có người thay thế;
- Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng;
- Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà không thuộc trường hợp phải hoãn phiên toà nhưng có người đề nghị hoãn phiên toà thì Hội đồng xét xử quyết định
hoãn hoặc không hoãn phiên toà.
Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm bao gồm các bước sau:
Thứ nhất, thủ tục bắt đầu phiên toà:
Đây là thủ tục mở đầu cho phiên toà xét xử sơ thẩm, bao gồm: Chủ toạ phiên toà phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thư ký phiên toà báo cáo sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập đến phiên toà, Chủ toạ phải kiểm tra sự có mặt và căn cước của người được triệu tập, phổ biến quyền và nghĩa vụ của đương sự v.v…Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động được ghi nhận tại Muc II chương XIV bao gồm các điều từ Điều 239 đến Diều 246 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Thứ hai, Tranh tụng tại phiên toà:
Thủ tục tranh tụng tại phiên toà được ghi nhận tại Mục III Chương XIV của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, bao gồm các điều từ Điều 247 đến Điều 263.
Trong thủ tục này, Hội đồng xét xử tiến hành các hoạt động như: Nghe lời trình bày; hỏi đương sự và người tham gia tố tụng khác; đương sự tiến hành tranh luận; phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, các tình tiết của vụ án, quan hệ pháp luật và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. (Điều 247 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Trình bày: Các đương sự và người bảo vệ quyền lợi cho đương sự có quyền trình bày yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình tại phiên toà. (Điều 248 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Hỏi tại phiên toà: những người có quyền hỏi và thứ tự hỏi được quy định như sau: Các đương sự, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người tham gia tố tụng khác, Chủ toạ phiên toà, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên (Điều 249 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Tranh luận tại phiên toà: Trong phần này các bên đương sự, người bảo vệ quyền lợi
cho đương sự căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và những quy định của pháp luật đưa ra ý
kiến của mình, đối đáp lại ý kiến của đương sự khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn
chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho họ trình bày hết ý kiến của mình.
Phát biểu quan điểm: Các đương sự và người bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong quá trình tranh luận có quyền đối đáp và phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án; Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. (Điều 261, 262 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015.
Thứ ba: Nghị án và tuyên án:
Nghị án:Sau khi kết thúc phần tranh tụng Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án. Chỉ có thành viên Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân mới được quyền nghị án. Hội đồng xét xử quyết định thời hạn nghị án nhưng tối đa không quá năm
ngày kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà.
Khi nghị án, Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà để làm cơ sở giải quyết các vấn đề của vụ án. Khi nghị án chủ tọa
nêu từng vấn đề cần giải quyết để các thành viên phát biểu thảo luận, Hội thẩm phát biểu
trước, sau đó đến Thẩm phán. Các quyết định của Hội đồng xét xử phải được các thành
viên thảo luận và quyết định theo đa số thành viên. Việc nghị án phải ghi thành biên bản
ghi lại những ý kiến đã thảo luận, người có ý kiến thiểu số có quyền ghi lại ý kiến của
mình, biên bản nghị án phải có chữ ký của tất cả các thành viên. Qua nghị án, nếu xét thấy
có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm
chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận. (Điều 264
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Tuyên án: Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử trở lại phiên toà để tuyên án. Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án phải có mặt của đương sự, đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã khởi kiện, trừ trường hợp đặc biệt. Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ toạ. Chủ toạ hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo. (Điều 267 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Sau khi kết thúc phiên toà, trong thời hạn ba ngày làm việc các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án. Trong thời hạn mười ngày làm
việc từ khi tuyên án, Toà án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. (Điều 269 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà trong thời
hạn pháp luật quy định có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Thủ tục phúc thẩm:
Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. (Điều 270 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Nguyên tắc xét xử của Toà án là thực hiện chế độ hai cấp xét xử, do đó bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm trong bản án, quyết định chưa có hiệu pháp luật và cũng để Toà án cấp trên kiểm tra chất lượng xét xử của Toà án cấp dưới, qua đó rút kinh nghiệm, chỉ đạo hoạt động xét xử cho đúng pháp luật.
Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Thời hạn thực hiện quyền kháng cáo được xác định như sau: Mười lăm ngày kể từ ngày Toà tuyên án (đối với những người có mặt tại phiên toà) hoặc ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết (nếu đương sự vắng mặt tại phiên toà). Bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Thời hạn thực hiện quyền kháng nghị được xác định như sau: Mười lăm ngày đối với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, một tháng đối với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp kể từ ngày Toà tuyên án. Nếu Kiểm sát viên không tham gia
phiên toà thì thời hạn được tính từ khi Viện kiểm sát nhận được bản án; Bảy ngày đối với
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, mười ngày đối với Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên trực tiếp kể từ ngày nhận được quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án. (Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị phải bằng văn bản. Nội dung kháng cáo, kháng nghị phải nêu rõ nội dung phần quyết định của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị; lý do kháng cáo, kháng nghị; yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị.
Kháng cáo, kháng nghị được gửi đến Toà án nhân dân cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án
đó. Trong thời hạn năm ngày, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm
theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị là phần bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa có hiệu lực pháp luật, phần bản án quyết định còn lại không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày thụ lysy vụ án, tuỳ từng trường hợp Toà án cấp phúc thẩm phải ra một trong các quyết định sau đây: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm; đưa vụ án ra xét xử. Đối với các vụ án phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài thêm nhưng không được quá một tháng.
Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà phúc thẩm, nếu vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn có thể được kéo dài đến hai tháng. (Điều 286 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm: (Điều 308 và Điều 314 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015):
- Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm;
- Sửa đổi bản án, quyết định sơ thẩm;
- Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm, huỷ một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm;
- Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
- Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm có văn bản trả lời Toà án có kết quả xử lý.
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay sau khi tuyên án, hoặc ngày ra quyết định.
Thủ tục xem xét lại đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
Về nguyên tắc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ có hiệu lực thi hành ngay và các cá nhân, tổ chức có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, có thể có những trường hợp đặc biệt mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những sai
sót hoặc có những tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án. Cùng với việc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm, pháp luật tố tụng còn quy định thủ tục đặc biệt
để xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đó là thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là: (Điều 331 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân cấp cao, Toà án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
- Chánh án Toà án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có
quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm:
- Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật; - Những bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
- Những bản án, quyết định của toà án cấp giám đốc thẩm.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là: (Điều 326. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015):
- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng
quy định của pháp luật; - Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình dẫn tới quyền lợi hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luậtdẫn tới bản án , quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích cộng đồng, lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Thời hạn để thực hiện quyền kháng nghị là ba năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp đặc biệt thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm hai năm. ( Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Việc kháng nghị này sẽ dẫn đến hậu quả là bản án, quyết định đã có hiệu lực bị tạm ngừng việc thi hành để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thẩm quyền giám đốc thẩm được xác định như sau: (Điều 337 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015):
- Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị.
- Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm đối với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp cao bị kháng nghị.
Trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày nhận được đơn kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải mở phiên toà xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm.
Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền hạn sau: (Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015):
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định
đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa; - Huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc theo thủ tục phúc thẩm; - Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án;
- Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định.
Tái thẩm:
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không thể biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là: (Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015):
- Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết
được trong quá trình giải quyết vụ án; - Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch
không đúng sự thật hoặc giả mạo chứng cứ; - Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc
cố ý kết luận trái pháp luật; - Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là: (Điều 354 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015):
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân cấp cao, Toà án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; - Chánh án Toà án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có
quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Thời hạn của kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Thẩm quyền tái thẩm và Hội đồng tái thẩm tương tự như đối với giám đốc thẩm. Hội
đồng tái thẩm có thẩm quyền sau:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực;
- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do
Bộ luật này quy định; - Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định tái thẩm có hiệu pháp luật kể từ ngày Hội đồng tái thẩm ra quyết định.
Xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Về nguyên tắc phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là phán quyết cuối cùng, phán quyết có giá trị cao nhất. Tuy nhiên phán quyết này vẫn có thể phải
xem xét lại trong trường hợp đặc biệt. Theo Điều 258 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy
định về yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao như sau:
- Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyêt định mà Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, đương sự đã không thể biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao thì Hội đồng. - Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó.
Bài viết trên là bao gồm tất cả các thủ tục giải quyết vụ án kinh doanh thương mại hi vọng bạn đọc có được thông tin hữu ích cho mình, mọi câu hỏi khác vui lòng để lại phần bình luận. Chúng tôi sẽ cập nhật những thông tin mà bạn cần cũng như giải đáp thắc mắc.
Xem thêm các bài viết liên quan khác tại đây
Trả lời