
Một trong những biện pháp cần thiết giúp góp phần giảm tình trạng tội phạm đối với tội Giết người chính là thực hiện xét xử đúng người, đúng tội. Hiện tại BLHS năm 2015 (sửa đổi năm 2017), các nhà lập pháp chỉ đang nêu ra các hành vi liên quan đối với tội Giết người. Nhưng thực tế phong phú, đa dạng lại luôn biến đổi không ngừng lại yêu các cơ quan xét xử, áp dụng pháp luật phải có cái nhìn lý luận và đúc kết từ thực tiễn để có thể làm rõ hơn việc định tội danh đối với từng hành vi.
Với mục đích nêu và phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội Giết người theo quy định tại Khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 (sửa đổi năm 2017) và thực hiện định tội danh.
Nội dung
- 1. Khái niệm tội giết người
- NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI THEO KHOẢN 1 ĐIỀU 123 BLHS 2015 (SỬA ĐỔI NĂM 2017)
- 2.1. Giết 02 người trở lên
- 2.2. Giết người dưới 16 tuổi
- 2.3. Giết phụ nữ mà biết là có thai
- 2.4. Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
- 2.5. Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình
- 2.6. Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
- 2.7. Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác
- 2.8. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
- 2.9. Thực hiện tội phạm một cách man rợ
- 2.10. Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp
- 2.11. Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người
- 2.12. Thuê giết người hoặc giết người thuê
- 2.13. Có tính chất côn đồ
- 2.14. Có tổ chức
- 2.15. Tái phạm nguy hiểm
- 2.16. Vì động cơ đê hèn
1. Khái niệm tội giết người
Phân tích quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015 về tội giết người, có thể thấy, BLHS chỉ nêu tên tội danh nhưng không mô tả cụ thể những dấu hiệu của tội này.
Căn cứ quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015 về tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” và thực tiễn xét xử các vụ án về tội giết người, có thể đưa ra định nghĩa về tội giết người như sau: “Tội giết người là hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm tính mạng của con người – là đối tượng được pháp luật bảo vệ”.
Phân tích quy định về tội giết người tại Điều 123 BLHS năm 2015, có thể thấy cấu thành tội phạm của tội giết người như sau:
2.1. Khách thể của tội giết người
Khách thể của tội giết người là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng của con người được pháp luật bảo vệ. Đó chính là quyền được sống hợp pháp của mỗi con người.
2.2. Chủ thể của tội giết người
Chủ thể của tội giết người là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015 thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Đồng thời, theo quy định tại Khoản 1 Điều 9, Khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm 2015 thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
2.3. Mặt khách quan của tội giết người
Mặt khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác. Hành vi hành động có thể là đâm, chém, bắn … nhưng cũng có thể là không hành động như hành vi của người mẹ là không cho con bú dẫn đến đứa trẻ bị chết.
Hành vi tước đoạt tính mạng chỉ được coi là hành vi khách quan của tội giết người nếu hành vi đó là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Do đó, những hành vi gây ra cái chết cho người khác được pháp luật cho phép (như phòng vệ chính đáng, thi hành án tử hình, …) không phải là hành vi khách quan của tội giết người.
Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc khi tội giết người được coi là hoàn thành. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là tội giết người chưa đạt (khi lỗi của chủ thể là lỗi cố ý trực tiếp) hoặc là tội cố ý gây thương tích (khi lỗi của chủ thể là lỗi cố ý gián tiếp và hậu quả thương tích xảy ra đủ cấu thành tội phạm này).
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả:
Một là, hành vi khách quan phải xảy ra trước hậu quả chết người.
Hai là, hành v khách quan tiềm ẩn khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả.
Thứ ba, thực tế hành vi khách qua đã gây ra hậu quả chết người.
2.4. Mặt chủ quan của tội giết người
Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp:
- Lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết.
- Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.
Mục đích, động cơ phạm tội không được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội giết người. Trong thực tế, hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác có thể được thực hiện với các mục đích, động cơ khác nhau (như giết người do mâu thuẫn cá nhân…). Nhưng nếu người phạm tội có mục đích và động cơ nhất định thì có thể sẽ cấu thành tội phạm khác mà không phải tội giết người. Những trường hợp đó cần được xem xét cụ thể trên thực tế.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI THEO KHOẢN 1 ĐIỀU 123 BLHS 2015 (SỬA ĐỔI NĂM 2017)
Khoản 1, Điều 123 BLHS năm 2015 (sửa đổi năm 2017) quy định: “Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”:
2.1. Giết 02 người trở lên
Đây là tình tiết người phạm tội có ý định giết từ 2 người trở lên. Người phạm tội có thể giết từ 02 người trong cùng một lần hoặc từ 02 lần khác nhau. Tuy nhiên nếu người phạm tội có ý thức bỏ mặt cho hậu quả chết người xảy ra thì hậu quả phải có từ 02 người chết trở lên thì mới thuộc vào tình tiết này.
2.2. Giết người dưới 16 tuổi
Người bị giết là người dưới 16 tuổi thì mặc định người phạm tội sẽ bị xét xử về tội giết người dưới 16 tuổi (còn gọi là giết trẻ em) dù cho người phạm tội có biết rằng người bị giết là người dưới hoặc trên 16 tuổi. Đây là đối tượng cần được xã hội đặc biệt quan tâm và bảo vệ.
2.3. Giết phụ nữ mà biết là có thai
Nếu người phụ nữ bị giết hại đang mang thai trên thực tế và người phạm tội biết rằng người phụ đó đang mang thai mà vẫn thực hiện tội phạm thì sẽ bị xét xử về tội giết phụ nữ mà biết có thai
Nếu người phụ nữ bị giết hại đang mang thai nhưng người phạm tội không biết người phụ nữ đó mang thai thì sẽ không bị xét xử về tội giết phụ nữ mà biết có thai.
Nếu người phụ nữ bị giết không mang thai nhưng người phạm tội lầm tưởng rằng người phụ nữ đó mang thai và thực hiện tội phạm thì sẽ bị xét xử về tội giết phụ nữ mà biết có thai.
2.4. Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
Giết người đang thi hành công vụ tức là người bị giết là người của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội bị giết khi đang trong quá trình làm nhiệm vụ.
Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân có nghĩa là khi người phạm tội giết người vì mục đích không cho nạn nhân thực hiện công vụ hoặc vì lý do trả thù
2.5. Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình
Các hành vi này là sự báo động nghiêm trọng về sự xuống cấp về đạo đức, nhân cách của người phạm tội.
Ông, bà, cha, mẹ, hoặc người nuôi dưỡng là những nạn nhân đã bị giết bởi người phạm tội là người mà những nạn nhân đó đã, đang trong quá trình nuôi dưỡng và được pháp luật thừa nhận mối quan hệ đó.
Thầy cô giáo là nạn nhận bị giết bởi người phạm tội mà họ đã, đang trong quá trình dạy dỗ người phạm tội đó.
2.6. Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Nghĩa là người phạm tội giết người mà trước đó hoặc sau khi người phạm tội đó đã phạm tội mà BLHS đã có án phạt từ 15 năm tù đến chung thân hoặc tử hình.
2.7. Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác
Người phạm tội có động cơ thúc đẩy dẫn tới hành vi giết người để thực hiện một tội phạm khác mà không nằm trong tình tiết 2.6 đã nêu phần trên.
Người phạm tội đã thực hiện hành phạm tội một lần và để che dấu tội phạm đó nên đã thực hiện hành vi giết người vì nạn nhân là người có thể đã biết được hành vi của người phạm tội, hoặc nạn nhân là người cùng thực hiện hành vi phạm tội một lần trước đó.
2.8. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
Người phạm tội thực hiện hành vi giết người với mục đích lấy các bộ phận trên cơ thể của nạn nhân (với mục đích khác nhau) đều được xét vào tội giết người.
2.9. Thực hiện tội phạm một cách man rợ
Người phạm tội thực hiện hành vi giết người bằng các thủ đoạn tra tấn tàn ác, dã man như cắt chân, tay, hay mổ bụng, khoét mắt… khiến nạn nhân đau đớn trước khi chết.
2.10. Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp
Bằng cách lợi dụng vào nghề nghiệp của mình người phạm tội thực hiện hành vi giết người một cách dễ dàng có thể vì mục đích trả thù hoặc để che dấu tội phạm.
2.11. Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người
Là việc người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện khác nhau có thể làm chết nhiều người. Nếu trong trường hợp thực hiện các công cụ phương tiện có khả năng làm chết nhiều người nhưng không làm chết nhiều người thì vẫn được xét về tội giết người.
Nếu trong trường hợp không làm ai chết thì người phạm tội sẽ được xét vào tội giết người chưa đạt.
2.12. Thuê giết người hoặc giết người thuê
Thuê giết người là người phạm tội không trực tiếp thực hiện hành vi giết người mà thuê một người khác thực hiện thì vẫn được xếp vào tội giết người.
Giết người thuê là việc người phạm tội thực hiện hành vi giết người do người khác thuê để nhận được những lợi ích vật chất từ người đi thuê đó.
2.13. Có tính chất côn đồ
Người phạm tội mặc dù có nhận thức được hậu quả nhưng vẫn bất chấp coi thường quy tắc đạo đức, lối sống bằng những hành vi ngang ngược hung giữ để giết người hoặc giết người vì những nguyên nhân vô cớ.
2.14. Có tổ chức
Người phạm tội là hai người trở lên có kế hoạch, tổ chức hoặc câu kết để cùng thực hiện hành vi giết người.
2.15. Tái phạm nguy hiểm
Người phạm tội đã phạm tội giết người mà trước đó người phạm tội đó đã bị kết án phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và chưa hết án tích.
2.16. Vì động cơ đê hèn
Người phạm tội thực hiện hành vi giết người bởi những động cơ liên quan đến nhân phẩm, danh dự, tư cách đạo đức của con người như động cơ vì ghen tuông mù quáng, hay tạt axit chỉ vì ghen tuông…
Trả lời