
Trước tiên chúng ta có thể hiểu một cách tổng quát của ” cạnh tranh không lành mạnh” là bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều được coi là cạnh tranh không lành mạnh.
Theo điều 10bis Công ước Paris thì các hành vi bị ngăn cấm trong cạnh tranh đó là:
a) Tất cả các hành vi có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hóa, hoặc hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của một bên cạnh tranh.
b) Những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng làm mất uy tín đối với cơ sở, hàng hóa, hoặc hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của một bên cạnh tranh.
c) Những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, phương pháp sản xuất, tính chất, mục đích sử dụng hoặc số lượng của hàng hóa.
Chính vì hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì vấn đề bảo hộ luôn luôn được đưa ra để bảo vệ sự cạnh tranh công bằng.
Thực tế cho thấy rằng có rất ít hi vọng để có thể đạt được sự cạnh tranh lành mạnh nếu chỉ dựa vào hoạt động tự do của các lực lượng tham gia thị trường. Về lý thuyết, người tiêu dùng với vai trò là trọng tài trong cuộc chơi kinh tế có thể cản trở các doanh nghiệp không trung thực bằng cách tẩy chay hàng hóa hoặc dịch vụ của những doanh nghiệp này và ưa chuộng hàng hóa hoặc dịch vụ của những người cạnh tranh trung thực.
Tuy nhiên, thực tế lại khác. Vì tình hình kinh tế trở nên phức tạp hơn, người tiêu dùng khó có thể hành động như một trọng tài. Thông thường thì họ còn thậm chí không có được vị thế để có thể tự phát hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chứ chưa nói đến việc phản ứng lại các hành vi đó. Quả thực, người tiêu dùng cùng với những người ủng hộ người cạnh tranh trung thực – phải được bảo vệ chống lại cạnh tranh không lành mạnh.
Cuộc chơi công bằng trên thị trường không thể được bảo đảm chỉ nhờ việc bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp. Một loạt các hành vi không lành mạnh, như quảng cáo gây nhầm lẫn và vi phạm bí mật kinh doanh thường không được giải quyết bởi các luật chuyên ngành về sở hữu công nghiệp. Do đó, luật cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết vừa để bổ sung cho pháp luật về sở hữu công nghiệp vừa đưa ra một loại đối tượng bảo hộ không được quy định trong các luật trên.
Cụ thể những hành vi được coi là không lành mạnh bao gồm:
Nội dung
1. Gây nhầm lẫn
Công ước Paris yêu cầu các quốc gia thành viên ngăn cấm tất cả các hành vi “có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất kỳ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hóa hoặc hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của đối thủ cạnh tranh”.
Phạm vi điều này rất rộng, bao hàm bất kỳ hành động nào trong hoạt động thương mại liên quan đến nhãn hiệu, dấu hiệu, nhãn sản phẩm, khẩu hiệu, bao gói, hình dạng hoặc màu sắc của hàng hóa hoặc bất kỳ dấu hiệu phân biệt nào khác mà người kinh doanh sử dụng.
Do vậy, không chỉ các dấu hiệu được sử dụng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ hoặc doanh nghiệp mà cả hình thức bên ngoài của hàng hóa hoặc phong cách cung cấp dịch vụ cũng được xem là có liên quan đến khả năng gây nhầm lẫn.
Tuy nhiên, có hai loại nhầm lẫn chính thường xuyên xảy ra. Đó là các chỉ dẫn về nguồn gốc thương mại và hình thức bên ngoài của hàng hóa. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản hoặc hạn chế việc bảo hộ những thuộc tính hoặc các thành quả khác chống lại việc gây nhầm lẫn.
2. Chỉ dẫn sai lệch
Chỉ dẫn sai lệch có thể được định nghĩa là việc tạo ra ấn tượng sai về sản phẩm hoặc dịch vụ của một đối thủ cạnh tranh. Đây là dạng riêng lẻ phổ biến nhất của cạnh tranh không lành mạnh và không vô hại chút nào.
Trái lại, chỉ dẫn sai lệch có thể gây ra những hậu quả khá nghiêm trọng: người tiêu dùng dựa trên những thông tin sai lệch có thể bị tổn hại về tài chính (hoặc các thiệt hại khác). Người cạnh tranh trung thực thì bị mất khách hàng. Sự minh bạch của thị trường bị giảm sút với các hậu quả bất lợi cho nền kinh tế nói chung và sự thịnh vượng về kinh tế.
Ví dụ, nếu thông thường, các thành phần hóa học bị cấm trong bánh mỳ thì tòa án của hầu hết các nước có thể coi lời tuyên bố trong quảng cáo rằng một loại bánh mỳ nhất định “không có các thành phần hóa học” là lừa dối vì theo nghĩa đen, tuyên bố này tạo nên một ấn tượng sai lệch rằng sự thật được quảng cáo là có điều gì đó không bình thường.
3. Làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh
Làm mất uy tín (hoặc làm mất thể diện) thường được hiểu là bất kỳ viện dẫn sai lệch nào về một đối thủ cạnh tranh mà có khả năng làm tổn hại đến uy tín thương mại của đối thủ cạnh tranh đó. Giống như chỉ dẫn sai lệch, việc làm mất uy tín nhằm lôi cuốn người tiêu dùng bằng những thông tin không chính xác.
Tuy nhiên, không giống chỉ dẫn sai lệch là những tuyên bố lừa dối hoặc sai lệch về sản phẩm của chính mình, làm mất uy tín và việc bôi nhọ một đối thủ cạnh tranh hoặc sản phẩm, dịch vụ của họ. Do đó, làm mất uy tín thường bao gồm việc tấn công trực tiếp vào một thương gia cụ thể hoặc một nhóm các thương gia cụ thể và dẫn đến hậu quả là: vì thông tin về đối thủ cạnh tranh hoặc sản phẩm của họ là không chính xác nên người tiêu dùng cũng bị chịu ảnh hưởng.
Ở một số nước, một lời bình luận trung thực về một đối thủ cạnh tranh có thể bị coi là cạnh tranh không lành mạnh nếu “việc công kích” đó bị thổi phồng quá mức hoặc sử dụng những từ ngữ gây tổn hại không cần thiết. Trong khi đó, một số nước lại giới hạn một cách rõ ràng khái niệm về làm mất uy tín ở các tuyên bố không chính xác hoặc ít nhất là mang tính chỉ dẫn sai lệch.
4. Tiết lộ thông tin bí mật
Sức mạnh cạnh tranh thương mại đáng kể của một doanh nghiệp có thể là nhờ có các thông tin được phát triển và tích luỹ bởi doanh nghiệp hoặc các cá nhân trong doanh nghiệp đó. Ví dụ, danh sách khách hàng và khách hàng tiềm năng có thể mang lại cho công ty đó lợi thế hơn công ty cạnh tranh không có danh sách với chất lượng tốt như vậy. Một ví dụ khác có thể là một doanh nghiệp đã phát triển một quy trình công nghiệp bí mật cho phép bán sản phẩm có chất lượng tốt hơn hoặc rẻ hơn.
Sức mạnh cạnh tranh thường phụ thuộc vào các kỹ thuật cải tiến và các bí quyết đi kèm trong lĩnh vực công nghiệp và, hoặc thương mại.
5. Lợi dụng thành quả của người khác
Lợi dụng thành quả của người khác được định nghĩa gần giống với khái niệm gây nhầm lẫn và chỉ dẫn sai lệch.Nó có thể được định nghĩa như một hình thức cạnh tranh rộng nhất là hành vi giả mạo.
Tuy nhiên, theo các nguyên tắc của thị trường tự do, việc khai thác hoặc “chiếm đoạt” thành quả của người khác chỉ bị coi là không lành mạnh trong một số trường hợp cụ thể. Mặt khác, hành vi gây nhầm lẫn hoặc chỉ dẫn sai lệch thường hàm ý lợi dụng thành quả của người khác, nhưng thường được coi là hành vi lợi dụng thành quả của người khác và luôn luôn bị coi là không lành mạnh.
Có rất nhiều kiểu lợi dụng thành quả của người khác, trong đó có hành vi làm giảm giá trị và đặc tính phân biệt của nhãn hiệu của đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể xảy ra nếu một nhãn hiệu tương tự được sử dụng cho các hàng hoá hoặc dịch vụ không tương tự
6. Quảng cáo so sánh
Quảng cáo so sánh có thể thuộc hai dạng: đối chiếu một cách tích cực với sản phẩm của người khác (tuyên bố rằng sản phẩm của họ tốt như sản phẩm của người khác) hoặc đối chiếu một cách tiêu cực (tuyên bố rằng sản phẩm của họ tốt hơn sản phẩm của người khác).
Trong trường hợp đầu tiên, sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thường là nổi tiếng, nghi vấn chủ yếu liên quan đến khả năng lợi dụng uy tín của người khác. Trong trường hợp thứ hai, khi sản phẩm của đối thủ cạnh tranh bị chỉ trích sẽ nảy sinh nghi vấn về việc làm mất uy tín.
Tuy nhiên, cả hai dạng so sánh trên đều liên quan đến việc đối chiếu (không được phép) đến một đối thủ cạnh tranh bằng cách nhắc đến tên của hoặc thông qua dấu hiệu khác mà công chúng có thể nhận diện được.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, có những khác biệt trong việc đánh giá khái niệm “chỉ dẫn sai lệch” và đặc biệt là khái niệm “làm mất uy tín”.
Theo quy tắc “người kinh doanh trung thực có quyền không bị nói đến ngay cả khi lời nói đó là sự thật,” luật pháp của một số nước thậm chí còn cấm tuyệt đối tất cả các hành vi so sánh dẫn đến nhận diện được đối thủ cạnh tranh một cách không cần thiết.
Luận cứ tương tự khiến tòa án của một số nước xác định quảng cáo so sánh không ít thì nhiều một cách tự động trái với các tập quán thương mại trung thực (và do đó trái với quy định chung của luật cạnh tranh không lành mạnh).
Mặc dù nhiều nước vẫn có quan điểm khắt khe rằng quảng cáo so sánh là một hoạt động không lành mạnh, trong những năm gần đây thái độ tiêu cực đối với quảng cáo so sánh đã có xu hướng thay đổi.
Ngoài ra một số những cạnh tranh không lành mạnh khác như:
- Quảng cáo gây phiền toái. Ví dụ, quảng cáo đề cập quá mức đến những mối lo ngại khi đưa sản phẩm ra bán.
- Sử dụng các chiêu thức xúc tiến bán hàng như quay xổ số, quà, phần thưởng. Những chiêu thức này thường được điều chỉnh nhằm tránh khuyến khích mua quá mức.
- Cản trở các hoạt động thị trường như tiêu hủy vỏ chai nước ngọt có thể tái sử dụng của một đối thủ cạnh tranh.
Tóm lại :Ý niệm về cạnh tranh không lành mạnh đã từng được nhắc đến và được đề cập là một trong các cách thức để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong văn kiện sửa đổi Brussels của Công ước Paris từ những năm đầu của thế kỷ 20. Có thể thấy rõ nhất hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các hành động bóp méo sự vận hành tự do của sở hữu trí tuệ và hệ thống lợi ích mà sở hữu trí tuệ mang lại.
Một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là “bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại”.
Tài liệu tham khảo tại: Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam ( Hiệp định TRIPS, Hiệp đình Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp)
Các bài viết khác liên quan:
Kiểu dáng công nghiệp và những vấn đề liên quan đến bảo hộ;
Nhãn hiệu & cách hiểu sao cho đúng;
Trả lời